THIỀN ĐỊNH
THẦN DU CÔNG HUYỀN PHÁP
Thần khai mở ý thân pháp định
Công luyện thành ý thỉnh nguyên căn
Pháp huyền du bước thoát lòng trần
Bỏ neo trần ai đến cảnh Thần
Chu du một bước đời thức tỉnh
Biết rõ huyền công ấy mới chân.
I- THIỀN ĐỊNH
1- Thiền định cứu khổ
Là phương cách tu thiền để cứu khổ
nhơn sanh (bá gia bá tánh) tức là nhận quang điển để được khai: huệ, huệ tâm,
huệ trí. Phương pháp này tu luyện rất dễ dàng, chứng nghiệm trong thời gian ba
niên trở lại.
Chỉ cần có tâm cứu khổ, chắc chắn sẽ
được chứng đắc về thiền tâm và đạt những sở ý, sở nguyện như ý của mình. Cách
công phu này không đòi hỏi ở thiền gia một kiên nhẫn lâu dài, không có gì khó
khăn. Chỉ cần có cái tâm thanh tịnh, cái tâm chân chính, luôn luôn giữ vững niềm
tin, đức tin, kiên trì, cương quyết là được như ý nguyện.
Trong pháp tu nầy thiền gia phải trải
qua 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Thiền tu cứu
khổ phải biết trụ tâm,
- Giai đoạn 2: Qua giai đoạn
trụ tâm phải biết định tâm, tức tâm thanh tịnh.
- Giai đoạn 3: Qua giai đoạn
thanh tịnh phải biết thâu nhận điển quang (tất chứng ngộ điển
quang).
quang).
Phần thực hành
Sơ lược tóm tắt cách thiền định:
- Phải định thiền vào giờ tý mỗi
đêm.
- Khi thức dậy, rửa mặt cho tươi tỉnh,
tâm thật yên lặng (không còn bị ngoại cảnh chi phối)
mới bắt đầu ngồi tịnh.
mới bắt đầu ngồi tịnh.
- Cách ngồi: bán dà hay kiết dà.
- Tay: bắt ấn phật tổ, 2 tay
để lên đầu gối. Nếu bắt ấn tý và kiết tường giao nhau tức là ấn tam
muội, 2 ngón tay đụng nhau. Khi xả thiền thì đưa lên đầu mà xả.
muội, 2 ngón tay đụng nhau. Khi xả thiền thì đưa lên đầu mà xả.
- Lưng: phải thẳng, mặt quay
về hướng Đông.
- Miệng: bình thường (ngậm).
- Mắt: mở và nhìn thẳng vào một
nơi nhất định (đầu cây nhang đang cháy, ngọn đèn vừa tầm
mắt).
mắt).
- Mật niệm: phật Tổ Di Đà,
Quan Âm cứu khổ cứu nạn.
- Hơi thở: hít bằng mũi, thở
bằng miệng thật nhẹ nhàng, chậm rải cho chân khí lưu thông đều
hòa.
Để ý kiểm soát toàn thân tứ đại, lúc đầu chưa quen có thể những triệu chứng khác lạ xảy ra, như ngứa, nhột nhạt trong cơ thể (thời gian sau quen dần tự nhiên hết) vẫn tự nhiên đừng để ý, tập quen dần những tiếng động bên tai.
hòa.
Để ý kiểm soát toàn thân tứ đại, lúc đầu chưa quen có thể những triệu chứng khác lạ xảy ra, như ngứa, nhột nhạt trong cơ thể (thời gian sau quen dần tự nhiên hết) vẫn tự nhiên đừng để ý, tập quen dần những tiếng động bên tai.
1-
Giai đoạn trụ tâm
Lúc đầu định thiền có những diễn biến
sau đây:
- Qua diễn biến đó sẽ đến giai đoạn
định tâm, tức là bắt đầu được yên lặng trong thân, tuy nhiên vẫn còn nghe tiếng
động bên ngoài.
- Qua thời gian nữa sẽ còn nghe
(phân biệt) nhưng cái động bên ngoài và dần dần sẽ đến giai đoạn thanh tịnh.
2- Giai
đoạn thanh tịnh
- Lúc định thiền không còn nghe, biết
những tiếng động bên ngoài (trong trạng thái không còn biết mình đang thở,
không còn vọng niệm Di Đà như lúc đầu), mà tự cảm thấy toàn thân nhẹ nhàng, gần
như không còn nghe cảm giác vể bãn thể mà an nhiên, tự nhiên, tức là không còn
bị chi phối từ bên trong và bên ngoài bãn thể.
- Đây là giai đoạn bắt đầu khai nhập
điển quang (khai tức là mở hườn, nhập tức là thu nhận điển quang vào toàn thân)
tức là mở ý thức thần và tâm, trí, huệ)
3- Giai
đoạn thu nhận điển quang
Khi tâm, trí, huệ được thanh tịnh, tức
là điển quang bắt đầu khai nhập, thì thân phàm tứ đại bắt đầu nhẹ nhàng thanh
thản trước mọi việc...
Không còn sợ cho bãn thể dù trước việc
lâm nguy mà vẫn tự nhiên ứng biến đối phó trong thong thả.
Khi đến giai đoạn thanh tịnh và
thâu nhập điển quang mỗi khi định thiền tầm hương tâm nguyện:
Cầu xin các chơn vị trong hàng Thập
bát điển quang, các hàng cửu phẩm, các hàng tiên gia lâm phàm giáng điển khai mở:
Huệ, huệ tâm, huệ trí cho đệ tử pháp danh ....... tên họ tuổi ....... Cầu xin
Quan Âm cứu khổ, cứu nạn, trực điển giúp cho đệ tử trong việc hành cứu khổ nhơn
sanh.
Nếu được khai mở tâm thì
quang điển sẽ chiếu rọi và xoáy nhẹ trước ngực của mình.
Nếu được khai trí thì quang
điển sẽ chiếu rọi và xoáy nhẹ giữa trán.
Nếu được khai huệ thì quang
điển sẽ giáng vào nơi nê hườn tức là đỉnh đầu.
Từ đó quang điển sẽ đi dần vào cơ
thể
Khai tâm: biết và thấy việc của người.
Khai trí: nhận biết và thấy được hiện tại quá
khứ.
Khai huệ: nghe thấy và biết được việc của người
và đồng thời có thể hành cứu khổ bằng cách chuyển bệnh hoặc giúp người thoát nạn.
Trong trường hợp, nếu được khai huệ
trước thì việc khai tâm, khai trí rất dễ dàng. Nếu khai tâm và trí trước thì phải
tiếp tục công phu, nếu dừng lại thì bị mất hay giảm đi.
Vị nào trong thiền định cứu khổ, nếu
duyên được khai huệ trước, thì cũng ví như tự mình đốt được ngọn đèn, còn ở
trong tình trạng khai tâm và trí trước là đang ở trong tình trạng mượn ánh đuốc.
Sau thời gian đã khai mở người tu
thiền sẽ tự biết xuất nhập điển quang khi tưởng đến. Giai đoạn này thì quang điển
không còn vào ở một nơi, mà chạy khắp trong cơ thể.
Những phân điễn do chính mắt nhìn thấy,
hoặc cảm nhận qua thần thức trực giáng giúp khai mở: huệ, tâm, trí là do nhân
duyên mình được hưởng.
Người tu thiền phải biết cảm nhận và
thu rút quang điển vào: Hít thở đều hòa để toàn thân được: Dương âm thọ, tức là
chơn điển đều hòa trong tứ thể từ đầu đến chân.
Để phân biệt từng phân điển giáng
cho mình như: nóng, mát, ấm, hoặc ớn rần theo đường xương sống lưng theo sự nhận
xét sau đây:
Điển mát: là của hàng chơn nhơn thập bát
Điển ấm: của hàng chư vị bồ tát
Điển nóng: của hàng võ hoặc Thần, Thánh.
Thường
khi nếu phân điển vào đường xương sống ớn lạnh, hoặc rợn người, đó là phân điển
của các hàng chư Thần chư Thánh. Để phân biệt tà quang, tức là phân điển của ngạ
quỷ, thì toàn thân nghe ớn lạnh. Lúc bấy giờ người tu thiền nên xả thiền ngay.
Để phân biệt màu sắc điển quang, quý
đạo hữu, quý bạn thiền gia để ý: Thông thường các chư vị ẩn trong ngũ sắc tùy
duyên hóa độ mà người tu thiền nhìn thấy sắc quang điển:
- Sắc tím xanh, trắng: từ hàng bồ
tát trở lên
- Sắc xanh, vàng, đỏ: từ cấp chư
Tiên xuống cấp Thần.
2- Thiền định giải thoát (tu thiền
giải thoát)
Phương pháp
tu để giải thoát (thoát phàm) phải trải qua những chướng ngại đầy khó khăn thử
thách. Phương pháp này có 2 giai đoạn phải đi qua:
- Thiền định
- Tham thiền nhập định
Diễn giải lý thuyết
a- THIỀN
ĐỊNH
Là giai đoạn đầu mà thiền gia phải
vượt qua, đây là giai đoạn trụ tâm.
Tâm sở trụ
kỳ quan kiết như lai
(tức là khi tâm đã trụ rồi, thì sẽ thấy được ta từ quá khứ đến hiện tại).
Tức là kiết kỳ tâm, trụ như sở ý:
nghĩa là khi đã thấy tâm, trụ tâm thì mới định tâm được. Nếu thấy tâm mà khơng
trụ được thì làm sao định được. Khi tâm đã định thì mới hành như sở ý của mình.
Đây là giai đoạn sơ thiền, muốn bước qua nhanh nhất phải mất từ 3 niên trở lên mới
chứng được thiền định.
- Thiền định: tức là thấy cái
tâm
- Trụ định: tức là trụ tâm.
- Nhập định: tức là thiền tâm
hay định tâm.
b- THAM THIỀN NHẬP ĐỊNH
Gồm có: Trung thiền va đại thiền
Vô minh sở trụ, bất kỳ tâm như ý
(tức là đến giai đoạn không còn có cái tâm)
Có nghĩa
là: trụ tâm như sở
ý, bất hoại diệt vô minh (tức là thành tiên tại thế).
Tuy mang xác phàm mà không mang, có
xác mà không có, muốn thoát xác lúc nào cũng được. Giaui đoạn nầy phàm xác không
còn là chướng ngại nữa, không còn điều gì là vướn vấp nữa. Trạng thái này phàm
nhơn gọi là đắc đạo hay thành tiên tại thế, cỏn giữ xác phàm là để hóa độ nhân
sinh.
Trường hợp này muốn trả thân phàm tứ
đại phải lên non cao nhập định thoát chơn hồn, phàm thân thành nước vì không
còn ảnh hưởng của ngũ hành. Có những vị lúc trả xác phàm để lại phàm thân bằng
xương không thối rữa. Đó là lúc chứng đắc rút linh hốn khỏi phàm xác luôn cả phần
tinh, khí, thần nên những chất khí ngũ hành không nhiễm vào được, cho nên hình
thể vẫn giữ nguyên giống như tượng đá không tan rã. Nhưng nếu để lại phần tinh,
khí, thần tức là còn thọ nhập ngũ hành, tức nhiên xác phàm bị hoại rửa.
1- Giai đoạn trung thiền
Giai đoạn nầy
còn gọi là tham thiền. Người tu thiền bắt đầu chuyển qua sự nghe, thấy, còn gọi
là thân ý thức.
Giai đoạn này là: trụ tâm kỳ
như ý thức giới
Trụ tâm kỳ như: ý nghĩa là đã
đạt sở ý
Ý thức giới: nhìn thấy mọi sự
việc.
Có nghĩa là
sự nhận biết, thấy là cái tâm. Tâm muốn trụ thì trụ, muốn định thì định, tức là
giai đoạn làm chủ cái tâm.
2- Giai đoạn đại thiền hay nhập định
Định tâm như
sở trụ, bất hoại kiết kỳ như vô minh kiết bất ý. Đây là giai đoạn không còn thấy
trụ, định nữa mà là giai đoạn rốt ráo. Tuy mang xác phàm mà không có, muốn
thoát xác lúc nào cũng được.
Dẫn giải thực hành
a/ Giai
đoạn sơ thiền
Thiền tu giải thoát chỉ ngồi trụ tâm
đến lúc không còn bị động. Cơ thể ở vào trạng thái nhẹ nhành thanh thản. Đến
giai đoạn ở vào trạng thái nầy thiền gia phải bước qua giai đoạn trung thiền.
b/ Giai
đoạn trung thiền
Giai đoạn này thiền gia phải có đầy
đủ tinh, khí, thần.
- Luyện tinh: phải luyện hỏa
xa
- Luyện khí: phải luyện đơn
điền
- Luyện thần: phải luyện dưỡng
sinh.
Ba pháp tu
này thiền gia phải chọn lựa pháp nào đi trước, pháp nào luyện sau. Thông thường
thì phải luyện thần trước để cho cơ thể đầy đủ sinh khí, chịu đựng được mọi
gian lao thử thách trong thời gian lâu dài mà cơ thể không còn dùng thực. Về phần
đặc biệt này quý đạo hữu, quý bạn thiền gia muốn tham cứu tu luyện, Huệ Minh
xin hướng dẫn trực tiếp để sự tham cứu và tu luyện được ngộ ý.
- phần công phu dưỡng sinh mục
đích giúp bãn thể nhẹ nhàng, thanh thoát, có sức chịu đựng lâu dài trong bước
đường tu thiền.
- phần công phu đơn điền nhằm
mục đích đều hòa chân khí trong cơ thể, tâm linh thoải mái đi đến tình trạng
tuyệt dục.
- phần tu luyện hỏa xa là để
giúp thiền gia có một nội lực cao thâm, tự khai mở trí huệ, dùng lửa đốt lục dục
thất tình, lục dục trong cơ thể.
- Luyện khí là giai đoạn diệt
dục kế tiếp là luyện hỏa xa để trừ tuyệt dục. Nam thì qui túc, nữ thì buồng
trứng teo lại không còn hành kinh.
c/ Giai
đoạn tham thiền nhập định
Bước sang
giai đoạn này vừa thiền định trụ tâm, nhập định vừa luyện công các phép đã đi
qua trong giai đoạn trung thiền. Phần công phu này hằng ngày 2 thời: Tý, Ngọ.
Điều càn lưu ý là thiền gia phải sinh hoại đi đứng, bình thường. Tuy nhiên sự
sinh hoạt giao tiếp vẫn ở trong trạng thái thiền. Nếu không vận động ngồi mãi sẽ
khô tọa, tức là chân khí không lưu thông, chân tay sẽ bị tê liệt hay đau nhức,
có thể tê liệt luôn.
Trong thời gian ở vào giai đoạn
tham thiền nhập định sẽ có những triệu chứng xảy ra như sau:
- Đầu nặng: luyện sai ở thời
kỳ trung thiền.
- Ngực nặng: luyện sai ở
trung thiền.
- Phát dục: luyện sai ở trung
thiền.
- Toàn thân bị bải hoải: luyện
sai ở sơ thiền.
Các triệu chứng
trên khi đã phát hiện trong cơ thể, tức là đã luyện sai một trong các phép hay
thực hành trong các phép đều sai. Sự chữa trị phải hợp thời, nếu không thì sự
tu luyện sẽ không có kết quả thăng tiến, lâu dần chuyển sang triệu chứng nan y,
danh từ phàm thế thường dùng là "tẩu hỏa nhập ma".
3- Thiền định để tu luyện pháp công (còn gọi là phật hành)
Theo danh từ đạo, tu luyện huyền
công bằng tâm pháp gọi là pháp công hay phật hành.
Phật hành: tức là trụ định để tâm không, từ
tâm không, đem xử dụng trong hành đạo gọi là phật hành. Nếu dẫn giải sâu xa nữa
là việc hành đạo cứu khổ bằng cái tâm phật, tức là không định trước một điều
gì, không thọ hưởng: danh, lợi, cứ như nhiên, tự nhiên mà hành, tùy theo
nhân duyện gặp phải trong hiện lúc.
Muốn tu luyện pháp công tâm pháp thì
phải biết trụ tâm và định tâm để quán tưởng lệnh phù. Nếu là thiền gia thì sự
tu luyện rất dễ dàng và nhanh đến kết quả như ý.
Nếu chưa biết định tâm thì phải luyện
pháp định tâm trước, sau luyện pháp công. Về định tâm thì có 3 phương cách sau
đây:
a/ Phần
điều thân:
- Ngồi: vị thế bán dà hay kết
dà, lưng phải thẳng, cho chân khí lưu thông được dễ dàng đều hòa khắp cơ thể.
- Hai tay: bắt ấn phật tổ để
lên 2 đầu gối.
- Mắt: mở nhìn tới trước một
đối vật hay vào khoảng không để cho chân khí, quang điển vào đôi nhãn.
- Mật niệm trong tâm cầu xin
các chơn vị trong hàng thập bát đại điển quang, chư vị Bồ tát, tam cấp chư
Tiên, chư Thánh, chư Thần trợ giúp trực điển tiếp sức trong vô hình.
- Khi quán tưởng ba cõi (tam
thiên) bằng tâm, mắt mở nhìn thẳng luôn sẵn sàng thâu nhận những tia quang điển
từ mắt phát ra.
- Thời gian công phu: tý, ngọ,
lâu hay mau tùy ý, sau quen dần trên 1 giờ.
b/ Phần
điều tâm:
Thời gian và
khắc công phu chánh là Tý, ngọ cho quen với chữ phù sau một thời gian luyện nhật
nguyệt.
Lúc ban ngày khi ánh nhựt vừa lố dạng
(trong vị thế ngồi hay đứng) nhìn thẳng vào mặt nhựt hay mặt nguyệt dùng bằng
tâm mắt hướng vào đó, mật niệm bắt đầu quán tưởng...
Cái công hiệu sự nín thở là để cho nội
lực dồn về tâm và nhãn mà phát huy pháp.
Thời gian như vậy tối thiểu 100
ngày, không cần liên tục, nhưng không để khoảng cách quá lâu một vài ngày. Khi
định tâm quáng tưởng thấy tâm nhiên hiện ra trước mặt màu ửng đỏ là thành công.
Trong tình trạng này thì tâm đã tịnh, dù bên ngoài có ồn ào la ó cũng không làm
xao xuyến phân tâm có thể bế được nhĩ, tất nhiên diệt dược thức của nhĩ, nghĩa
là nghe mà ý không dẫn được.
Lúc ban đêm trong những đêm trăng
sáng, hay nhìn vào những vì sao có ánh sáng chiếu tỏa, tu luyện như mặt nhựt.
Qua một thời gian, mỗi khi nhìn quán
tưởng tam cõi vào mặt nhựt hay nguyệt thì thấy phát quang chiếu sáng, lúc đó
thu ánh sáng vào tâm và đôi nhãn. Đến lúc cần xử dụng, khi có ý tưởng, tự nhiên
tam thiên phát ra từ tâm hay nhãn tùy theo ý muốn của ta.
Khi đã định tâm được rồi, ta bắt đầu
tu luyện pháp công mới dễ dàng và nhanh chóng.
Có 3 cách luyện tâm, tùy theo
ý thích, chỉ cần luyện một trong ba cách
- Chữ vạn và 3 chữ Thiên
- Ba chữ Thiên.
Công dung:
- Định tâm
- Giải trừ mọi tật bệnh cho bá gia
- Trừ khử tà gian ẩn trong thể xác.
DÙNG THIỀN TU LUYỆN PHÁP CÔNG
Pháp công: là huyền pháp xuất phát từ tâm. Muốn
có một quyền phép xuất phát từ tâm theo ý muốn của mình thì phải tu luyện cái
tâm đến lảnh vực định. Tâm phải không tất cả, nghĩa là thân xác tâm linh không
còn có việc gì vướng trần cảnh. Được như vậy mới có thể dùng mật ngữ tu luyện
mà phát huy được sự huyền linh. Cho nên gọi là phép thần thông là như vậy. Vì
các phép nầy ở trong lãnh vực huyền công nên đòi hỏi phải có cái tâm chơn như,
vị tha cứu khổ, hay nói cách khác mà theo nghĩa phàm thế gọi là tâm phật hay Bồ
tát mới tu luyện được thành công.
Khi tu luyện chứng đắc xem như đắc
quả về phần thần thông tại thế phàm, vì khi xử dụng thì huyền linh pháp ứng
không thể lường được.
Các phép nầy do các chơn vị trong
hàng Thập bát điển quang, các hàng Bồ tát, các vị Tiên gia lâm phàm truyền dạy
cho các đệ tử phàm thế có nhân duyên.
Phần tu luyện pháp công do Huệ Từ sư
đệ trong hội đảm trách. Nếu quý huynh đệ, quý thiền gia, quý đạo hữu có thiện ý
tham cứu tu luyện hầu cứu giúp nhân sanh, thì sư đệ Huệ Từ trực tiếp hướng dẫn,
dẫn giảng về khẩu quyết phương thức tu luyện.
4- Thiền định tu luyện thần thông (Đây là phương pháp tu luyện
trong huyền công)
Thần: thần thức
Thông: chỉ sự khai mở về thân tứ đại
Thần
thông: là dùng thần
thức thiền định để khai mở thân tứ đại về lục thông: Huệ, trí, tâm, nhĩ, nhãn,
khẩu.
Đây là những yếu tố chính trong thần
thông. Có thể gọi là lục thông, tức là 6 con đường trong bãn thể được khai mở.
Sáu con đường nầy chỉ có một chổ xuất phát từ thân tứ đại. Muốn khai mở được
minh sáng tất phải diệt đường đen tối.
Nếu diệt được căn, trần, thức về đường nào thì đường đó được sáng trong, lộ được
tánh Thiên, đó là chân, thiện, mỹ, trở
về bãn tánh cội gốc xuất phát thời nguyên thủy.
Từ thời khai thiên, lúc có nhơn phàm
đầu tiên thì chưa nhiễm ngũ hành, vào thời đó nhơn sanh chưa nhiễm căn, trần,
thức. Sắc tướng chưa nhiễm ngũ hành, vì thế trí chưa phát triển. Mãi đến thời hậu
thiên sự ô nhiễm quá nặng, nên tánh thiên bị che mất bởi u minh, lục căn, lục
thức đưa trí tuệ con người đến đỉnh cao, cho nên đạo đức suy di ngày càng suy
di, mất gốc, cho nên mạt phát là như vậy.
Diệt cho sạch lục tà bản thể
Mở huệ tâm mới để lộ nguyên hình
Lục căn cội rể mới thấy nhin
Đừng nhiễm thể để lục trần lôi cuốn
Diệt căn gốc tận nguồn đưa xuống
Mở huệ tâm mới khai được lục trần
Diệt mà khai, khai mà diệt phàm nhân
Lục căn, lục tánh ý trần nhiễm ô
Khai thức giới bước vô bản thể
Mở lục trần diệt thể tà tâm
Căn nguyên cội rễ chẳng lầm
Khai đường chánh giác không nhầm bến
mê.
Phần nầy giống
như phần thiền định giải thoát, nhưng có cái khác biệt là đi thẳng đường vào
khai mở lục thông. Cho nên khi định thiền trong điều tức đưa nội lực về nơi đã
định. Qua nhiều thời gian mỗi ngài tăng một ít đi dến chổ khai thông hoàn toàn.
Phần này lưu truyền gởi đến quý đạo hữu, quý thiền gia có tâm cứu khổ.
5- Thiền định tu luyện huyền công cứu nhân
Những danh từ
nhân sanh thường dùng: phép tắc thần thông, bùa phép, phù chú được lưu truyền từ
ngàn xưa đến nay, nhưng chưa ai biết rõ xuất xứ như thế nào.
Ngay các vị đệ tử thời hậu thiên của
2 môn phái: Thánh tổ Lỗ ban Cửu Thiên Huyền Nữ và Thần tổ Lỗ ban Khương thái
Công cũng chưa hiểu rõ sự xuất xứ lưu truyền như thế nào. Phần đông các vị sư
chỉ chú tâm tu luyện thần thông phép tắt mà thiếu hẳn phần quan trọng đó là
pháp đạo. Chứng đắc thần thông chưa hẳ là đạt đạo của Thầy, mà hành theo ý muốn
của Thầy, tức là cái điều mà sau khi bỏ xác phàm được trở về cỏi Thiên vĩnh viễn,
thoát được bể trầm luân trần thế.
Chính vì sự thiếu sót quan trọng đó,
hơn nữa cũng do nhân duyên nên Huệ Minh cùng quý đạo hữu, quý bạn thiền gia
quay về dĩ vãng của thời khai thiên.
1- THẦN TỔ
LỖ BAN KHƯƠNG THÁI CÔNG
Ngược dòng thời gian trở về thời khai thiên tiền
kiếp của Khương thái Công là một trong những tiểu vô cực điển dương xuất thần
cùng một lúc với các chơn vị trong hàng Thập bát điển quang.
Lúc vô cực d8iển dương phân hóa, điển
vô cực tiền kiếp của Ngài Khương Thái Công chẳng may bị rơi vào hành không chơn
khí, tức là một hành âm chết. Vì xuất thân là một tiểu vô cực dương, nên ở vào
hành âm nầy tiểu vô cực điển vẫn công phu được, vì còn lưu dưởng điển dương khi
phân hóa, nhưng chỉ biến hóa được thành những loài không tri giác mà thôi, tuy
nhiên vẫn biết di động và linh hoạt được.
Trong cùng một lúc khai sinh, có một
tiểu vô cực điển dương may mắn hơn rơi nhằm ngay một hành vượn tinh khí chiếu tỏa
quang, có hấp lực thu rút được vượn khí các hành khắp bơi. Cho nên tiểu vô cực
điển nầy công phu tu luyện rất dễ dàng chứng đắc huyền công nhanh hơn một số
các tiểu vô cực khác. Tiểu vô cực điển nầy có danh từ trần thế lưu truyền qua
kinh văn giáo lý đó là Ngài Phổ Hiền Bồ tát.
Trong hành thiếu chơn khí Ngài Thái
Công cố gắn công phu tu luyện từ một tiểu vô cực điển hóa thành chim Bạch nhạn
xinh đẹp mỏ đỏ, lông trắng, chân đỏ như son, biết bay nhảy di động, nhưng dù
công phu cố gắn thế nào đi nữa cũng không hóa sắc tướng thành hình dạng nhơn
phàm được.
Lúc đắc đạo Phổ Hiền Bồ tát nhìn khắp
nơi thấy có những tiểu vô cực điển dương đắc đạo và một số không may mắn khác vẫn
còn trong hoàn cảnh khó khăn bế tắc. Cho nên Ngài dùng huyền công giúp đở bằng
cách chuyển vượn khí tinh sang giúp, trong đó có tiền kiếp của Ngài Khương Thái
Công, lúc đó chỉ là chim bạch nhạn.
Nhờ những vượn khí do Phổ Hiền Bồ
tát chuyển đến giúp, tiểu quang vô cực điển tiền kiếp Thái Công (chim bạch nhạn)
công phu tiếp tục và bắt đầu phát tỏa điển quang vô cực. Sự thành công đầu tiên
của Ngài là biết phép luyện huyền công biến hóa, dù đang mang hình thể sắc tướng chim Bạch nhạn. Phép luyện công biến
hóa bằng chữ phù, cho nên Ngài dùng chân vẽ phù mà luyện pháp.
Trải qua một thời gian dài mà không thể ước
tính được chính xác, Ngài Thái Công chứng đắn huyền công tức là: Thần công tu
luyện bằng chữ phù (xuất phát đầu tiên do Ngài tìm ra). Trong lúc nầy Thiên Địa
thành hình, bộ máy tạo hóa ra đời. Nhờ những chứng đắc huyền công nên Ngài bay
liệng khắp nơi trong hành Ngài đang ngự. Khi ước muốn điều gì thì dùng đôi chân
vẽ phù tất sẽ được như ý. Chữ thần công nầy có cái đặc biệt nữa là mở được kim
quang xích sắt tiêu mòn sỏi đá.
Ở trong hành nầy Ngài Thái Công đi
khắp nơi để tìm chổ cho mình công phu tu luyện đến khi phát tỏa ánh quang. Cho
nên đã phát tan nhiều kim quang sắt đá hầu làm nơi để trụ điển. Sau cùng, Ngài
sa vàomột vùng dương âm thạch, dùng mỏ xử dụng thần công phá tan nham thạch
tìm dưởng khí thiên, khí nham thạch, vỡ tan hắc khí quang trong nham thạch bao
phủ Ngài làm ảnh hưởng đến sắc tướng Ngài thọ mang. Từ mỏ đỏ lông trắng , chân
đỏ biến thành lông màu xám ô, mỏ đen, chân đen mà ngày hôm nay chúng nhơn gọi
là chim gỏ mỏ.
Nhờ phá được nham thạch âm, Ngài bay
ra được khỏi hành âm chết nầy và bay thẳng sang hành có chiếu quang tinh, tức
là hành Ngài Phổ Hiền đang ngự. Sự thoát khỏi hành âm chết này để sang hành
vươn tinh khí là nhờ sự trợ giúp hóa công âm thầm của Phổ Hiền Bồ tát.
Khi đến nơi Phổ Hiền Bồ tát bắt đầu
rút lại những vượn khí chiếu quan phát giúp Thái công từ hành âm trở lại và bắt
đầu giúp cho Thái công tu luyện thọ rút ngũ hành. Lúc bấy giờ Thái công bắt đầu trụ điển. Có một
điều mầu nhiện xảy ra khi lúc Thái công ở hành âm chết công phu thọ rút ngũ
hành để hóa sanh làm chim Bạch nhạn thì phần tiểu vô cực điển dương đầu tiên biến
mất, nhưng khi ở hành vượn tinh khí bắt đầu trụ điển tu luyện thì phần tiểu vô
cực điển đầu tiên dần dần có trở lại và ngày càng phát tỏa, thì chim Bạch nhạn
dần dần không di động dược. Sự biến động mầu nhiện nầy song song nhau, lúc mất
tiểu vô cực điển thì hóa thành chim bay liệng, lúc tiểu vô cực điển có lại thì
chim tự nhiên biến mất dần sự di động, nhưng vẫn còn mang sắc tướng loài chim.
Từ đó Ngài Phổ Hiền Bồ tát dùng huyền
công tỏa điển cho Thái Công biến hình, từ còn mang trạng thái sắc tướng loài
chim thành một tiểu vô cực điển khởi thủy mà chính Thái Công không hề hay biết.
Đến lúc hoàn thành biến thành tiểu vô cực đầu tiên Ngài Thái Công bắt đầu công
phu tu luyện hóa sắc tướng như các chơn vị đắc quả đã đi qua. Lúc bấy giờ Thái
Công tự tôn Ngài Phổ Hiền Bồ tát là bậc cao minh, khép mình làm đệ tử, vì Ngài
chúng đắc sau Bồ tát, hơn nữa nhờ sự trợ giúp của Phổ Hiền, Ngài mới đắc quả
thành công.
Trong nối tiếp Thái Công bắt đầu
công phu tu luyện thọ rút ngũ hành chiếu tỏa xuyên qua hành âm chết mà ngày trước
đã ở. Ngài công phu huyền hóa đem tất cả điển quang của mình bay trở lại để luyện
tập thần công.
Thần công là gì? Là dùng phù
chú để sai khiến loài vô tri giác.
Thần: là biến hóa các loài vô
tri giác có thần thức.
Công: là sự huyền công hóa tạo,
dù không có tri giác, nhưng có thần thức di động dược.
Khi đắc quả Ngài Thái Công bay trở lại
tôn Phổ Hiền Bồ tát làm thầy. Trong tiếp tục Thái Công trụ điển công phu đến
kho hóa quang chiếc phân tiểu điển, tiền kiếp Ngài Thái Công đắc quả trở về khối
dương để lại tiểu quang điển mà Ngài đã công phu hóa hại trao đổi công đức giúp
tiểu quang tu luyện thần công. Để trả lại công đức, Thái Công đem tiểu quang
chiếc phân làm môn đồ đệ tử Ngài Phổ Hiền Bồ tát. Từ đó Phổ Hiền Bồ tát cho tiểu
quang của Thái Công tiền kiếp về non để truyền pháp cho các bậc Thần, Thánh ở
cõi Địa Tiên. Ở cõi Địa Tiên, Ngài có danh là Khương Thái Công, đó là tiền kiếp
của Ngài là như vậy.
Về thần thông thì có 2 phần:
1- Huyền pháp: dùng tâm để biến
hóa
2- Thần pháp: dùng mật ngữ bằng
chữ để điều khiển biến hóa.
SỰ TU LUYỆN
Sự tu luyện thần công nầy có qui luật
rõ ràng, có cả thảy là: 365 chữ thần công pháp bối (tức là xử dụng
chữ phù giống như bửu bối) và có 732 chữ huyền công phật bối (tức
là Lỗ ban phật).
Khi xuống phàm thế Khương Thái Công
không xử dụng huyền công của mình mà chỉ xử dụng thần công nên Ngài là Giáo
chủ Thần tổ Lỗ ban là như vậy.
- Pháp huyền công thì dùng nhật
nguyệt để tu luyện thu rút chữ phù vào tâm. Mỗi chữ phù phải công phu đúng 300 âm.
- Pháp tu luyện thần công thì
mỗi chữ phù có một câu chú niệm, cũng luyện nhật nguyệt hóa quang chữ phù 100
âm. Chữ phù nầy cò sự biến hóa loài vô
tri giác di động linh hoạt. Câu niệm chú là câu điều khiển như ý.
TẠI SAO
CÓ SỰ SUNG ĐỘT GIỮA THẦN CÔNG VÀ HUYỀN CÔNG, GIỮA CÁC BÀ NGŨ HÀNH VÀ CÁC VỊ SƯ TRẦN
THẾ?
Các vị sư trần thế đánh cắp các chữ
phù huyền công của các Bà, dùng thần công sai khiến phá hoại các Bà. Nguyên Lỗ
ban là môn tu học thần thông phép tắc chỉ dành riêng cho vị nào xuống thế, tu
non ẩn núi luyện tập hầu ban rải giữa chốn nhân phàm hữu hình công phu chứng đắc.
Lỗ
ban là môn học riêng biệt trong cõi vô hình từ cấp Thần trở xuống phàm thế tu học
mà thôi. Từ cấp Thánh trở lên chỉ tu luyện huyền pháp chớ không học thần thông,
cho nên gọi là Lỗ ban.
Thí dụ: Mộc là loài vô tri
giác, nhưng người tu luyện dùng mộc để luyện thần thông mà sai khiến hành xử chốn
thế nhân, cho nên thợ mộc xuất phát đầu tiên tu luyện thần công là vậy.
Thần tổ Lỗ ban là môn học riêng biệt
của cõi vô hình. Có thể gọi là một môn phái đứng riêng rẽ trong cỏi vô hình,
cũng như giữa thế trần có nhiều tôn giáo.
Ở vào thời nhà Trụ, Khương Thái Công
xuất thân tu luyện ẩn dật trên non. Ngài đã đắc pháp về huyền công và thần
công. Ngài ẩn dật trên núi Tu Di ngọn Tam thanh. Thái Công biết được khí số
chơn mạng đế vương. Vua Trụ vốn là loài vượn bạch tu hành đắc quả huyền công và
xuống phàm làm một vị vương. Vì cao dầy công quả nên lâm phàm làm một vị vương
để lập công bồi đức. Khi trở lại cõi thiên vào cõi hư vô thanh tịnh. Nhưng khi
xuống phàm làm một vị vương người đi ngược lại, đam mê tửu sắc hoang phí làm
cho nhân dân đói khổ, gây nhiều trọng tội. Cho nên tại cõi Thiên có một cuộc đại
hội Tam thanh. Các cấp hội đồng do các Ngài Thập Bát điển quang trụ trì phân định,
truyền cho Tử Nha trở xuống phàm rút khí số của vua Trụ. Trong cuộc hội ấy, có
Ngài Diêu Trì địa Mẫu truyền cho các vị nũ Tiên xuống phàm vào thời vua Trụ để
bắt cho hết những loài dã thú ẩn dật tu luyện chờ dịp quấy nhiễu nhơn sanh,
cùng lúc đó có Khương Tử Nha xuống thế để rút lại khí số vua Trụ.
Trong
lúc các vị nữ Tiên xuống phàm tìm bắt các loài dã thú tu luyện quấy nhiễu nhơn
sanh, thì Tử Nha đang ẩn tại núi Tu Di động Tam thanh chờ ngày mạt vận Trụ
vương. Các vị nữ Tiên đó đây hành pháp, còn Tử Nha thì trụ một nơi chờ ngày
hành xử.
Kỳ mạt vận Trụ vương đến nơi. Các vị
nữ Tiên hóa Thần ẩn vào động thất nơi hoang miếu giữa chốn phàm nhân để độ pháp
nhơn phàm. Vì khí số đến thời mạt vận nên khiến vua Trụ xúc phạm đến vị Thần Nữ
Hoa. Cho nên vị nữ Thần dùng loài chồn tinh biến hóa mượn xác phàm nữ nhân tài
sắc lôi cuốn Trụ vương vào vòng sa đọa. Vì có công tu luyện về thần thông biến
hóa, nhưng về đạo pháp chưa ngộ, cho nên cả 2 vị mà tiền thân là loài cầm thú,
khi được làm nhơn phàm không phát triển đạo đức, mà lộ bản ngã thú tánh đi vào
đường thất nhân mất đức. Đến thời gian này Tử Nha xuống thế hợp sức cùng các vị
nữ Tiên để tận diệt loài yêu tinh quấy nhiễu.
Những vị cầm tinh loài vượn bạch nầy
công phu tu luyện quá lâu dài, nên vượn khí vửng mạnh, Tử Nha phải ẩn dật thêm
một thời gian nữa chờ cuộc hội phán định Tam cấp.
Các Ngài trong hội đồng ra lịnh cho
lập Bảng Phong Thần diệt Trụ Vương và cứu vớt một số linh căn linh tử.
Đây là cuộc thi tài, thi đức cho tất cả những phần có công tu luyện và đạo hạnh.
Trong thời hậu thiên nầy sự mất đức
quá nhiều, nhân sanh ô nhiễm thế trần quá nặng, người chân tu đạo đức rất ít,
phần đông thì đội lớp tu hành để mưu lợi, tìm danh cho bãn thân. Cho nên các
chơn vị trong hàng Thập bát cùng hội đồng
tam cấp cho lập ra Long hoa hội để cho các phần linh căn, linh tử cùng các chơn
phàm xuất thân không phải là linh căn, linh tử có công tu luyện chọn trở về cõi
Thiên.
Cho nên trong cuộc thi tài nầy nhấm
vào 2 phần để cứu vớt
Thi tài: chọn lựa người thiên
mệnh có tài lẫn đức
Thi đức: chọn lựa người có
công phu tu luyện, người hiền nhơn đạo đức.
Thi tài chẳng qua chọn lựa người học
đạo tu luyện về huyền pháp và thần pháp. Người nào đi vào đường tu luyện hành đạo
cứu khổ bằng huyền pháp mới là kẻ có tài đức. Người nào đi vào đường thần pháp
hành đạo cứu nhân thường là kẻ có tài mà thiều đức.
Người chân chính trong thời hậu
thiên nầy không ai học đạo cứu khổ bằng con đường thần pháp. Thay vì dùng chữ
phù dùng chú điều khiển vật vô tri giác như ngày xưa, nhưng ngày nay các vị sư
dùng binh ma yêu quái khiến chúng hành xử theo phù lệnh. Cho nên thường gây thất
đức nhiều hơn cứu khổ nhơn phàm, ít có vị được công đức.
Thánh
tổ Lỗ ban Cửu Thiên Huyền Nữ
Cửu Thiên
Huyền Nữ là chiếc quang của Diêu Trì Kim Mẫu có danh thế trần là Bích Liên Công
Chúa sau thời gian khai thiên lập địa. Ngài công phu chứng đắc huyền công cùng
thời với tiền thân Khương Thái Công.
Cùng trong một thời gian tiền thân của
Tử Nha được Phổ Hiền Bồ Tát dùng huyền công trợ giúp công phu tu luyện chứng đắc
thành Lưu Ly dương phật, thì Bích Liên Công Chúa cũng đắc quả Tích Lịch
Quang Phật. Hai vị nầy cùng trở lại hành âm thiếu linh khí bằng tất cả đại
quang điển của mình để cùng nhau tu luyện tìm ra Thần Công binh pháp và Huyền
Công binh pháp. Sau khi binh pháp huyền công được lưu truyền ở chốn nhơn
phàm Bích Liên Công Chúa được phong danh Cửu Thiên Huyền Nữ thánh tổ.
Khi chứng đắc quả Lưu Ly Quang phật
Ngài Thái Công có đại nguyện cứu vớt nhân sanh thời hậu thiên, nên tiếp tục
công phu tu luyện thần công.
Khi cứng đắc quả Tích Lịch Quang phật
Ngài Cửu Thiên có đại nguyện cứu vớt nhơn phàm thời suy di tận mạt.
Hai vị đắc quả có cùng chung một lời
đại nguyện vào thời hậu thiên cứu khổ, cho nên hai vị trở lại hành âm chết,
cùng nhau công phu tu luyện ra Huyền Công tâm pháp và Thần Công tâm pháp để lại
cho thế trần và trong cõi vô hình lưu truyền đến ngày hôm nay.
Vào thời trung thiên lập bảng phong
thần là để cứu vớt các phần linh căn thiên mệnh và các loài thú cầm đã dầy công
tu luyện. Nếu dùng pháp đạo để độ pháp vào thời đó rất khó khăn và cũng không
có kết quả bao nhiêu, nên Lưu Ly dương phật và Tích Lịch quang phật cùng phát
nguyện tu luyện huyền công để cứu khổ nhơn phàm trong các thời suy di tận mạt.
Cho nên 2 vị chiếu quang trở lại hành âm chết, không chơn khí mà tu luyện huyền
công.
Pháp tu luyện nầy bước đầu rất khó
khăn trở ngại. Giữa trong hành không có ngũ hành, không có chơn khí, không có
âm dương, chỉ toàn là một khối mù sương mờ mịt. Nhờ sự chứng đắc quả công giữa
Cửu Thiên và Lưu Ly mới dùng đại quang điển của mình rút khí ngũ hành mang vào
hành âm ấy, rút tia dương quang nhật, rút tia dương quang nguyệt
mang vào khối âm hành để công phu. Cùng một lúc không thể đem 2 tia quang nhật
và quang nguyệt vào, nên 2 vị mới chia làm hai. Ngài phương đông, Ngài phương
tây chiếu quang rút vào hành âm và bắt đầu dùng danh từ đặt tên cho loài vật vô
tri.
Trong lúc tu luyện như vậy 2 Ngài
rút khí ngũ hành vào trước rồi dùng tia quang điển của mình rút nhật nguyệt.
Hai vị người đông người tây đối diện chiếu tỏa nhật nguyệt giữa ngũ hành để làm
tự chú.
Đầu tiên 2 vị tu luyện thần công trước,
sau mới luyện huyền công. Lúc bấy giờ các vật chưa có danh từ, nên 2 vị đặt
danh từ để việc sắp xếp dễ dàng công phu. Hai vị dùng tia quang điển soi khắp
các vùng hành âm, thấy vật thì trắng, cái thì xanh, cái thì cứng rắn, cái thì dẻo
dai tự vươn tự phát trong hành ân nầy. Cho nên 2 vị nhận đinh:
- Vật dẻo nhưng cứng gọi là Mộc
- Cái dai mềm gọi là Kim
- Cái cứng rắn gọi là Thạch
Từ trong các
vật nầy nhị vị mới tìm tự chú công phu biến hóa thần thức vào đó cho đến lúc
chúng biết di động. Thế trần hôm nay mỗi nghề đều có một vị tổ là lúc khai sáng
ngũ hành trần thế khai sáng Lỗ ban dùng những vật vô tri giác điều khiển những
vật thể biết di động linh hoạt dần dần có thần thức, cho nên chúng là vị tổ của
vật thể đó.
Sau khi đắc pháp thần công và huyền
công nhị vị mới định ngũ hành chính xác bằng vật thể cho trần thế. Chính ngũ
hành có sắc tướng nầy mới hành thì được phép huyền công.
Từ khi khai sanh đất trời, ngũ hành
do các chơn vị trong Thập bát điển quang hóa tạo ở thể khí không rõ ràng, chưa
có tên bằng vật thể thế trần, tức là chưa có sắc tướng. Sau nầy nhị vị phật tìm
ra đặt thành tự theo sắc tướng.
Thí dụ:
- Hỏa tượng trưng cho khí dương.
- Thủy tượng trưng cho khí âm.
-
Kim tượng trưng cho đồ dùng trang sức.
- Mộc tượng trưng cho cây cỏ.
- Thổ tượng trưng cho thạch (lớp địa
thạch hành âm cứng rắn, khó mòn, không thể nào dùng hết được).
Sau khi đắc
pháp thần công, nhị vị trụ điển dùng phương thức thần công tu luyện huyền công,
dùng chữ dùng tâm pháp để luyện thành và sai khiến.
Mộc tượng trưng cho nhơn.
Thổ tượng trưng cho địa (thạch).
Sau nầy dùng các lệnh phù ấy tu luyện,
khiển binh bằng tâm pháp. Trong việc khiển binh nầy ta dùng huyền công tâm pháp
để điều khiển và sai khiến các vị tướng thần hành xử.
Thần công có 2 cách để sai khiến:
1- Dùng chú tự để điều khiển lệnh
phù, bắt trói những vong linh tinh yêu ma quỷ, điều khiển chúng theo ý mình.
2- Dùng lệnh phù và chú tự để điều
khiển loài không tri giác theo ý của mình.
- Nếu dùng trấn ếm, thư gởi thì dùng
vật hoàn toàn không tri giác.
- Nếu dùng quấy phá thì dùng binh ma
tướng quỷ hoặc những vong linh vất vơ vất vưởng.
Cho nên các
bùa phép: chà, lèo, á rặc, ngải đều đi từ trong thần công mà ra. Đặc biệt các
loại chà, lèo, á rặc thì dùng thư nhiều hơn ếm, vì chúng dùng loài vô tri giác
mà điều khiển.
Về á rặc thì thường xẩy ra:
thư ếm và khuấy phá vì trong đó có binh ma tướng quỉ là những vong vất vơ, vất
vưởn thu rút chúng về qui tụ.
Phần trình bày trên đây với dụng ý
hướng dẫn khái niệm cho quý đạo hữu, quý bạn thiền gia, quý tín hữu trong bốn
phương lướt qua trong cõi vô hình. Trong lúc tiếp nối sẽ gởi đến quý đạo hữu,
quý bạn thiền gia, quý tín hữu phần huyền công binh pháp. Xem qua được phần huyền
công binh pháp tức là đã xemThần du công huyền pháp.
Thiền trụ niết
con đường chân lý
Định quán
tâm thân chỉ nhiệm mầu
Định thiền
tâm chỉ ở đâu
Ấy người thiền
định phải cầu huyền vi
Thiền thời
tâm ta phải định
Định là tâm
trụ niết bàn
Mâu ni ấy chữ
chuyển sang
Của người
thiền định tâm vàng chân như.
TRỞ VỀ TRANG NHÀ - Hội Thông Thiên Chơn Giáo
No comments:
Post a Comment