Friday, October 24, 2014

THIỀN ĐỊNH - THẦN DU CÔNG HUYỀN PHÁP

animated buddha photo: Animated Buddha buddhasan.gif



THIỀN ĐỊNH
THẦN DU CÔNG HUYỀN PHÁP
Thần khai mở ý thân pháp định
Công luyện thành ý thỉnh nguyên căn
Pháp huyền du bước thoát lòng trần
Bỏ neo trần ai đến cảnh Thần
Chu du một bước đời thức tỉnh
Biết rõ huyền công ấy mới chân.



I- THIỀN ĐỊNH
            1- Thiền định cứu khổ


Là phương cách tu thiền để cứu khổ nhơn sanh (bá gia bá tánh) tức là nhận quang điển để được khai: huệ, huệ tâm, huệ trí. Phương pháp này tu luyện rất dễ dàng, chứng nghiệm trong thời gian ba niên trở lại.
Chỉ cần có tâm cứu khổ, chắc chắn sẽ được chứng đắc về thiền tâm và đạt những sở ý, sở nguyện như ý của mình. Cách công phu này không đòi hỏi ở thiền gia một kiên nhẫn lâu dài, không có gì khó khăn. Chỉ cần có cái tâm thanh tịnh, cái tâm chân chính, luôn luôn giữ vững niềm tin, đức tin, kiên trì, cương quyết là được như ý nguyện.
            Trong pháp tu nầy thiền gia phải trải qua 3 giai đoạn:
            - Giai đoạn 1: Thiền tu cứu khổ phải biết trụ tâm,
            - Giai đoạn 2: Qua giai đoạn trụ tâm phải biết định tâm, tức tâm thanh tịnh.
            - Giai đoạn 3: Qua giai đoạn thanh tịnh phải biết thâu nhận điển quang (tất chứng ngộ điển    
              quang).
Phần thực hành
            Sơ lược tóm tắt cách thiền định:
            - Phải định thiền vào giờ tý mỗi đêm.
            - Khi thức dậy, rửa mặt cho tươi tỉnh, tâm thật yên lặng (không còn bị ngoại cảnh chi phối)  
              mới bắt đầu ngồi tịnh.
            - Cách ngồi: bán dà hay kiết dà.
            - Tay: bắt ấn phật tổ, 2 tay để lên đầu gối. Nếu bắt ấn tý và kiết tường giao nhau tức là ấn tam
              muội, 2 ngón tay đụng nhau. Khi xả thiền thì đưa lên đầu mà xả.
            - Lưng: phải thẳng, mặt quay về hướng Đông.
            - Miệng: bình thường (ngậm).
            - Mắt: mở và nhìn thẳng vào một nơi nhất định (đầu cây nhang đang cháy, ngọn đèn vừa tầm
              mắt).
            - Mật niệm: phật Tổ Di Đà, Quan Âm cứu khổ cứu nạn.
            - Hơi thở: hít bằng mũi, thở bằng miệng thật nhẹ nhàng, chậm rải cho chân khí lưu thông đều
              hòa.
Để ý kiểm soát toàn thân tứ đại, lúc đầu chưa quen có thể những triệu chứng khác lạ xảy ra, như ngứa, nhột nhạt trong cơ thể (thời gian sau quen dần tự nhiên hết) vẫn tự nhiên đừng để ý, tập quen dần những tiếng động bên tai.
            1-         Giai đoạn trụ tâm
            Lúc đầu định thiền có những diễn biến sau đây:
            - Sẽ xuất phát những hiện tượng quá khứ vị lai, toàn thân có triệu chứng ngứa hay nhột nhạt
            - Qua diễn biến đó sẽ đến giai đoạn định tâm, tức là bắt đầu được yên lặng trong thân, tuy nhiên vẫn còn nghe tiếng động bên ngoài.
            - Qua thời gian nữa sẽ còn nghe (phân biệt) nhưng cái động bên ngoài và dần dần sẽ đến giai đoạn thanh tịnh.
           2-         Giai đoạn thanh tịnh
            - Lúc định thiền không còn nghe, biết những tiếng động bên ngoài (trong trạng thái không còn biết mình đang thở, không còn vọng niệm Di Đà như lúc đầu), mà tự cảm thấy toàn thân nhẹ nhàng, gần như không còn nghe cảm giác vể bãn thể mà an nhiên, tự nhiên, tức là không còn bị chi phối từ bên trong và bên ngoài bãn thể.
            - Đây là giai đoạn bắt đầu khai nhập điển quang (khai tức là mở hườn, nhập tức là thu nhận điển quang vào toàn thân) tức là mở ý thức thần và tâm, trí, huệ)
            3-         Giai đoạn thu nhận điển quang
            Khi tâm, trí, huệ được thanh tịnh, tức là điển quang bắt đầu khai nhập, thì thân phàm tứ đại bắt đầu nhẹ nhàng thanh thản trước mọi việc...
            Không còn sợ cho bãn thể dù trước việc lâm nguy mà vẫn tự nhiên ứng biến đối phó trong thong thả.
            Khi đến giai đoạn thanh tịnh và thâu nhập điển quang mỗi khi định thiền tầm hương tâm nguyện:
            Cầu xin các chơn vị trong hàng Thập bát điển quang, các hàng cửu phẩm, các hàng tiên gia lâm phàm giáng điển khai mở: Huệ, huệ tâm, huệ trí cho đệ tử pháp danh ....... tên họ tuổi ....... Cầu xin Quan Âm cứu khổ, cứu nạn, trực điển giúp cho đệ tử trong việc hành cứu khổ nhơn sanh.
            Nếu được khai mở tâm thì quang điển sẽ chiếu rọi và xoáy nhẹ trước ngực của mình.
            Nếu được khai trí thì quang điển sẽ chiếu rọi và xoáy nhẹ giữa trán.
            Nếu được khai huệ thì quang điển sẽ giáng vào nơi nê hườn tức là đỉnh đầu.
            Từ đó quang điển sẽ đi dần vào cơ thể
Khai tâm: biết và thấy việc của người.
Khai trí: nhận biết và thấy được hiện tại quá khứ.
Khai huệ: nghe thấy và biết được việc của người và đồng thời có thể hành cứu khổ bằng cách chuyển bệnh hoặc giúp người thoát nạn.
            Trong trường hợp, nếu được khai huệ trước thì việc khai tâm, khai trí rất dễ dàng. Nếu khai tâm và trí trước thì phải tiếp tục công phu, nếu dừng lại thì bị mất hay giảm đi.
            Vị nào trong thiền định cứu khổ, nếu duyên được khai huệ trước, thì cũng ví như tự mình đốt được ngọn đèn, còn ở trong tình trạng khai tâm và trí trước là đang ở trong tình trạng mượn ánh đuốc.
            Sau thời gian đã khai mở người tu thiền sẽ tự biết xuất nhập điển quang khi tưởng đến. Giai đoạn này thì quang điển không còn vào ở một nơi, mà chạy khắp trong cơ thể.
            Những phân điễn do chính mắt nhìn thấy, hoặc cảm nhận qua thần thức trực giáng giúp khai mở: huệ, tâm, trí là do nhân duyên mình được hưởng.
            Người tu thiền phải biết cảm nhận và thu rút quang điển vào: Hít thở đều hòa để toàn thân được: Dương âm thọ, tức là chơn điển đều hòa trong tứ thể từ đầu đến chân.
            Để phân biệt từng phân điển giáng cho mình như: nóng, mát, ấm, hoặc ớn rần theo đường xương sống lưng theo sự nhận xét sau đây:
Điển mát: là của hàng chơn nhơn thập bát
Điển ấm: của hàng chư vị bồ tát
Điển nóng: của hàng võ hoặc Thần, Thánh.
            Thường khi nếu phân điển vào đường xương sống ớn lạnh, hoặc rợn người, đó là phân điển của các hàng chư Thần chư Thánh. Để phân biệt tà quang, tức là phân điển của ngạ quỷ, thì toàn thân nghe ớn lạnh. Lúc bấy giờ người tu thiền nên xả thiền ngay.
            Để phân biệt màu sắc điển quang, quý đạo hữu, quý bạn thiền gia để ý: Thông thường các chư vị ẩn trong ngũ sắc tùy duyên hóa độ mà người tu thiền nhìn thấy sắc quang điển:
            - Sắc tím xanh, trắng: từ hàng bồ tát trở lên
            - Sắc xanh, vàng, đỏ: từ cấp chư Tiên xuống cấp Thần.
            2-         Thiền định giải thoát (tu thiền giải thoát)
Phương pháp tu để giải thoát (thoát phàm) phải trải qua những chướng ngại đầy khó khăn thử thách. Phương pháp này có 2 giai đoạn phải đi qua:
            - Thiền định
            - Tham thiền nhập định
Diễn giải lý thuyết
a- THIỀN ĐỊNH
            Là giai đoạn đầu mà thiền gia phải vượt qua, đây là giai đoạn trụ tâm.
Tâm sở trụ kỳ quan kiết như lai (tức là khi tâm đã trụ rồi, thì sẽ thấy được ta từ quá khứ đến hiện tại).
            Tức là kiết kỳ tâm, trụ như sở ý: nghĩa là khi đã thấy tâm, trụ tâm thì mới định tâm được. Nếu thấy tâm mà khơng trụ được thì làm sao định được. Khi tâm đã định thì mới hành như sở ý của mình. Đây là giai đoạn sơ thiền, muốn bước qua nhanh nhất phải mất từ 3 niên trở lên mới chứng được thiền định.
            - Thiền định: tức là thấy cái tâm
            - Trụ định: tức là trụ tâm.
            - Nhập định: tức là thiền tâm hay định tâm.
b- THAM THIỀN NHẬP ĐỊNH
Gồm có: Trung thiền va đại thiền
            Vô minh sở trụ, bất kỳ tâm như ý (tức là đến giai đoạn không còn có cái tâm)
Có nghĩa là: trụ tâm như sở ý, bất hoại diệt vô minh (tức là thành tiên tại thế).
            Tuy mang xác phàm mà không mang, có xác mà không có, muốn thoát xác lúc nào cũng được. Giaui đoạn nầy phàm xác không còn là chướng ngại nữa, không còn điều gì là vướn vấp nữa. Trạng thái này phàm nhơn gọi là đắc đạo hay thành tiên tại thế, cỏn giữ xác phàm là để hóa độ nhân sinh.
            Trường hợp này muốn trả thân phàm tứ đại phải lên non cao nhập định thoát chơn hồn, phàm thân thành nước vì không còn ảnh hưởng của ngũ hành. Có những vị lúc trả xác phàm để lại phàm thân bằng xương không thối rữa. Đó là lúc chứng đắc rút linh hốn khỏi phàm xác luôn cả phần tinh, khí, thần nên những chất khí ngũ hành không nhiễm vào được, cho nên hình thể vẫn giữ nguyên giống như tượng đá không tan rã. Nhưng nếu để lại phần tinh, khí, thần tức là còn thọ nhập ngũ hành, tức nhiên xác phàm bị hoại rửa.
            1- Giai đoạn trung thiền
Giai đoạn nầy còn gọi là tham thiền. Người tu thiền bắt đầu chuyển qua sự nghe, thấy, còn gọi là thân ý thức.
            Giai đoạn này là: trụ tâm kỳ như ý thức giới
            Trụ tâm kỳ như: ý nghĩa là đã đạt sở ý
            Ý thức giới: nhìn thấy mọi sự việc.
Có nghĩa là sự nhận biết, thấy là cái tâm. Tâm muốn trụ thì trụ, muốn định thì định, tức là giai đoạn làm chủ cái tâm.
            2- Giai đoạn đại thiền hay nhập định
Định tâm như sở trụ, bất hoại kiết kỳ như vô minh kiết bất ý. Đây là giai đoạn không còn thấy trụ, định nữa mà là giai đoạn rốt ráo. Tuy mang xác phàm mà không có, muốn thoát xác lúc nào cũng được.
Dẫn giải thực hành
a/ Giai đoạn sơ thiền
            Thiền tu giải thoát chỉ ngồi trụ tâm đến lúc không còn bị động. Cơ thể ở vào trạng thái nhẹ nhành thanh thản. Đến giai đoạn ở vào trạng thái nầy thiền gia phải bước qua giai đoạn trung thiền.
b/ Giai đoạn trung thiền
            Giai đoạn này thiền gia phải có đầy đủ tinh, khí, thần.
            - Luyện tinh: phải luyện hỏa xa
            - Luyện khí: phải luyện đơn điền
            - Luyện thần: phải luyện dưỡng sinh.
Ba pháp tu này thiền gia phải chọn lựa pháp nào đi trước, pháp nào luyện sau. Thông thường thì phải luyện thần trước để cho cơ thể đầy đủ sinh khí, chịu đựng được mọi gian lao thử thách trong thời gian lâu dài mà cơ thể không còn dùng thực. Về phần đặc biệt này quý đạo hữu, quý bạn thiền gia muốn tham cứu tu luyện, Huệ Minh xin hướng dẫn trực tiếp để sự tham cứu và tu luyện được ngộ ý.
            - phần công phu dưỡng sinh mục đích giúp bãn thể nhẹ nhàng, thanh thoát, có sức chịu đựng lâu dài trong bước đường tu thiền.
            - phần công phu đơn điền nhằm mục đích đều hòa chân khí trong cơ thể, tâm linh thoải mái đi đến tình trạng tuyệt dục.
            - phần tu luyện hỏa xa là để giúp thiền gia có một nội lực cao thâm, tự khai mở trí huệ, dùng lửa đốt lục dục thất tình, lục dục trong cơ thể.
            - Luyện khí là giai đoạn diệt dục kế tiếp là luyện hỏa xa để trừ tuyệt dục. Nam thì qui túc, nữ thì buồng trứng teo lại không còn hành kinh.
c/ Giai đoạn tham thiền nhập định
Bước sang giai đoạn này vừa thiền định trụ tâm, nhập định vừa luyện công các phép đã đi qua trong giai đoạn trung thiền. Phần công phu này hằng ngày 2 thời: Tý, Ngọ. Điều càn lưu ý là thiền gia phải sinh hoại đi đứng, bình thường. Tuy nhiên sự sinh hoạt giao tiếp vẫn ở trong trạng thái thiền. Nếu không vận động ngồi mãi sẽ khô tọa, tức là chân khí không lưu thông, chân tay sẽ bị tê liệt hay đau nhức, có thể tê liệt luôn.
            Trong thời gian ở vào giai đoạn tham thiền nhập định sẽ có những triệu chứng xảy ra như sau:
            - Đầu nặng: luyện sai ở thời kỳ trung thiền.
            - Ngực nặng: luyện sai ở trung thiền.
            - Phát dục: luyện sai ở trung thiền.
            - Toàn thân bị bải hoải: luyện sai ở sơ thiền.
Các triệu chứng trên khi đã phát hiện trong cơ thể, tức là đã luyện sai một trong các phép hay thực hành trong các phép đều sai. Sự chữa trị phải hợp thời, nếu không thì sự tu luyện sẽ không có kết quả thăng tiến, lâu dần chuyển sang triệu chứng nan y, danh từ phàm thế thường dùng là "tẩu hỏa nhập ma".
            3- Thiền định để tu luyện pháp công (còn gọi là phật hành)
            Theo danh từ đạo, tu luyện huyền công bằng tâm pháp gọi là pháp công hay phật hành.
Phật hành: tức là trụ định để tâm không, từ tâm không, đem xử dụng trong hành đạo gọi là phật hành. Nếu dẫn giải sâu xa nữa là việc hành đạo cứu khổ bằng cái tâm phật, tức là không định trước một điều gì, không thọ hưởng: danh, lợi, cứ như nhiên, tự nhiên mà hành, tùy theo nhân duyện gặp phải trong hiện lúc.
            Muốn tu luyện pháp công tâm pháp thì phải biết trụ tâm và định tâm để quán tưởng lệnh phù. Nếu là thiền gia thì sự tu luyện rất dễ dàng và nhanh đến kết quả như ý.
            Nếu chưa biết định tâm thì phải luyện pháp định tâm trước, sau luyện pháp công. Về định tâm thì có 3 phương cách sau đây:
a/ Phần điều thân:
            - Ngồi: vị thế bán dà hay kết dà, lưng phải thẳng, cho chân khí lưu thông được dễ dàng đều hòa khắp cơ thể.
            - Hai tay: bắt ấn phật tổ để lên 2 đầu gối.
            - Mắt: mở nhìn tới trước một đối vật hay vào khoảng không để cho chân khí, quang điển vào đôi nhãn.
            - Mật niệm trong tâm cầu xin các chơn vị trong hàng thập bát đại điển quang, chư vị Bồ tát, tam cấp chư Tiên, chư Thánh, chư Thần trợ giúp trực điển tiếp sức trong vô hình.
            - Khi quán tưởng ba cõi (tam thiên) bằng tâm, mắt mở nhìn thẳng luôn sẵn sàng thâu nhận những tia quang điển từ mắt phát ra.
            - Thời gian công phu: tý, ngọ, lâu hay mau tùy ý, sau quen dần trên 1 giờ.
b/ Phần điều tâm:
Thời gian và khắc công phu chánh là Tý, ngọ cho quen với chữ phù sau một thời gian luyện nhật nguyệt.
            Lúc ban ngày khi ánh nhựt vừa lố dạng (trong vị thế ngồi hay đứng) nhìn thẳng vào mặt nhựt hay mặt nguyệt dùng bằng tâm mắt hướng vào đó, mật niệm bắt đầu quán tưởng...
            Cái công hiệu sự nín thở là để cho nội lực dồn về tâm và nhãn mà phát huy pháp.
            Thời gian như vậy tối thiểu 100 ngày, không cần liên tục, nhưng không để khoảng cách quá lâu một vài ngày. Khi định tâm quáng tưởng thấy tâm nhiên hiện ra trước mặt màu ửng đỏ là thành công. Trong tình trạng này thì tâm đã tịnh, dù bên ngoài có ồn ào la ó cũng không làm xao xuyến phân tâm có thể bế được nhĩ, tất nhiên diệt dược thức của nhĩ, nghĩa là nghe mà ý không dẫn được.
            Lúc ban đêm trong những đêm trăng sáng, hay nhìn vào những vì sao có ánh sáng chiếu tỏa, tu luyện như mặt nhựt.
            Qua một thời gian, mỗi khi nhìn quán tưởng tam cõi vào mặt nhựt hay nguyệt thì thấy phát quang chiếu sáng, lúc đó thu ánh sáng vào tâm và đôi nhãn. Đến lúc cần xử dụng, khi có ý tưởng, tự nhiên tam thiên phát ra từ tâm hay nhãn tùy theo ý muốn của ta.
            Khi đã định tâm được rồi, ta bắt đầu tu luyện pháp công mới dễ dàng và nhanh chóng.
            Có 3 cách luyện tâm, tùy theo ý thích, chỉ cần luyện một trong ba cách
            - Chữ vạn và 3 chữ Thiên
            - Ba chữ Thiên.
Công dung:     
            - Định tâm
            - Giải trừ mọi tật bệnh cho bá gia
            - Trừ khử tà gian ẩn trong thể xác.
DÙNG THIỀN TU LUYỆN PHÁP CÔNG

Pháp công: là huyền pháp xuất phát từ tâm. Muốn có một quyền phép xuất phát từ tâm theo ý muốn của mình thì phải tu luyện cái tâm đến lảnh vực định. Tâm phải không tất cả, nghĩa là thân xác tâm linh không còn có việc gì vướng trần cảnh. Được như vậy mới có thể dùng mật ngữ tu luyện mà phát huy được sự huyền linh. Cho nên gọi là phép thần thông là như vậy. Vì các phép nầy ở trong lãnh vực huyền công nên đòi hỏi phải có cái tâm chơn như, vị tha cứu khổ, hay nói cách khác mà theo nghĩa phàm thế gọi là tâm phật hay Bồ tát mới tu luyện được thành công.
            Khi tu luyện chứng đắc xem như đắc quả về phần thần thông tại thế phàm, vì khi xử dụng thì huyền linh pháp ứng không thể lường được.
            Các phép nầy do các chơn vị trong hàng Thập bát điển quang, các hàng Bồ tát, các vị Tiên gia lâm phàm truyền dạy cho các đệ tử phàm thế có nhân duyên.
            Phần tu luyện pháp công do Huệ Từ sư đệ trong hội đảm trách. Nếu quý huynh đệ, quý thiền gia, quý đạo hữu có thiện ý tham cứu tu luyện hầu cứu giúp nhân sanh, thì sư đệ Huệ Từ trực tiếp hướng dẫn, dẫn giảng về khẩu quyết phương thức tu luyện.
            4- Thiền định tu luyện thần thông (Đây là phương pháp tu luyện trong huyền công)
Thần: thần thức
Thông: chỉ sự khai mở về thân tứ đại
Thần thông: là dùng thần thức thiền định để khai mở thân tứ đại về lục thông: Huệ, trí, tâm, nhĩ, nhãn, khẩu.
            Đây là những yếu tố chính trong thần thông. Có thể gọi là lục thông, tức là 6 con đường trong bãn thể được khai mở. Sáu con đường nầy chỉ có một chổ xuất phát từ thân tứ đại. Muốn khai mở được minh sáng tất phải diệt đường đen tối.
            Nếu diệt được căn, trần, thức về đường nào thì đường đó được sáng trong, lộ được tánh Thiên, đó là chân, thiện, mỹ, trở về bãn tánh cội gốc xuất phát thời nguyên thủy.
            Từ thời khai thiên, lúc có nhơn phàm đầu tiên thì chưa nhiễm ngũ hành, vào thời đó nhơn sanh chưa nhiễm căn, trần, thức. Sắc tướng chưa nhiễm ngũ hành, vì thế trí chưa phát triển. Mãi đến thời hậu thiên sự ô nhiễm quá nặng, nên tánh thiên bị che mất bởi u minh, lục căn, lục thức đưa trí tuệ con người đến đỉnh cao, cho nên đạo đức suy di ngày càng suy di, mất gốc, cho nên mạt phát là như vậy.
            Diệt cho sạch lục tà bản thể
            Mở huệ tâm mới để lộ nguyên hình
            Lục căn cội rể mới thấy nhin
            Đừng nhiễm thể để lục trần lôi cuốn
            Diệt căn gốc tận nguồn đưa xuống
            Mở huệ tâm mới khai được lục trần
            Diệt mà khai, khai mà diệt phàm nhân
            Lục căn, lục tánh ý trần nhiễm ô
            Khai thức giới bước vô bản thể
            Mở lục trần diệt thể tà tâm
            Căn nguyên cội rễ chẳng lầm
            Khai đường chánh giác không nhầm bến mê.
Phần nầy giống như phần thiền định giải thoát, nhưng có cái khác biệt là đi thẳng đường vào khai mở lục thông. Cho nên khi định thiền trong điều tức đưa nội lực về nơi đã định. Qua nhiều thời gian mỗi ngài tăng một ít đi dến chổ khai thông hoàn toàn. Phần này lưu truyền gởi đến quý đạo hữu, quý thiền gia có tâm cứu khổ.
           5- Thiền định tu luyện huyền công cứu nhân
Những danh từ nhân sanh thường dùng: phép tắc thần thông, bùa phép, phù chú được lưu truyền từ ngàn xưa đến nay, nhưng chưa ai biết rõ xuất xứ như thế nào.
            Ngay các vị đệ tử thời hậu thiên của 2 môn phái: Thánh tổ Lỗ ban Cửu Thiên Huyền Nữ và Thần tổ Lỗ ban Khương thái Công cũng chưa hiểu rõ sự xuất xứ lưu truyền như thế nào. Phần đông các vị sư chỉ chú tâm tu luyện thần thông phép tắt mà thiếu hẳn phần quan trọng đó là pháp đạo. Chứng đắc thần thông chưa hẳ là đạt đạo của Thầy, mà hành theo ý muốn của Thầy, tức là cái điều mà sau khi bỏ xác phàm được trở về cỏi Thiên vĩnh viễn, thoát được bể trầm luân trần thế.
            Chính vì sự thiếu sót quan trọng đó, hơn nữa cũng do nhân duyên nên Huệ Minh cùng quý đạo hữu, quý bạn thiền gia quay về dĩ vãng của thời khai thiên.
1- THẦN TỔ LỖ BAN KHƯƠNG THÁI CÔNG
 Ngược dòng thời gian trở về thời khai thiên tiền kiếp của Khương thái Công là một trong những tiểu vô cực điển dương xuất thần cùng một lúc với các chơn vị trong hàng Thập bát điển quang.
            Lúc vô cực d8iển dương phân hóa, điển vô cực tiền kiếp của Ngài Khương Thái Công chẳng may bị rơi vào hành không chơn khí, tức là một hành âm chết. Vì xuất thân là một tiểu vô cực dương, nên ở vào hành âm nầy tiểu vô cực điển vẫn công phu được, vì còn lưu dưởng điển dương khi phân hóa, nhưng chỉ biến hóa được thành những loài không tri giác mà thôi, tuy nhiên vẫn biết di động và linh hoạt được.
            Trong cùng một lúc khai sinh, có một tiểu vô cực điển dương may mắn hơn rơi nhằm ngay một hành vượn tinh khí chiếu tỏa quang, có hấp lực thu rút được vượn khí các hành khắp bơi. Cho nên tiểu vô cực điển nầy công phu tu luyện rất dễ dàng chứng đắc huyền công nhanh hơn một số các tiểu vô cực khác. Tiểu vô cực điển nầy có danh từ trần thế lưu truyền qua kinh văn giáo lý đó là Ngài Phổ Hiền Bồ tát.
            Trong hành thiếu chơn khí Ngài Thái Công cố gắn công phu tu luyện từ một tiểu vô cực điển hóa thành chim Bạch nhạn xinh đẹp mỏ đỏ, lông trắng, chân đỏ như son, biết bay nhảy di động, nhưng dù công phu cố gắn thế nào đi nữa cũng không hóa sắc tướng thành hình dạng nhơn phàm được.
            Lúc đắc đạo Phổ Hiền Bồ tát nhìn khắp nơi thấy có những tiểu vô cực điển dương đắc đạo và một số không may mắn khác vẫn còn trong hoàn cảnh khó khăn bế tắc. Cho nên Ngài dùng huyền công giúp đở bằng cách chuyển vượn khí tinh sang giúp, trong đó có tiền kiếp của Ngài Khương Thái Công, lúc đó chỉ là chim bạch nhạn.
            Nhờ những vượn khí do Phổ Hiền Bồ tát chuyển đến giúp, tiểu quang vô cực điển tiền kiếp Thái Công (chim bạch nhạn) công phu tiếp tục và bắt đầu phát tỏa điển quang vô cực. Sự thành công đầu tiên của Ngài là biết phép luyện huyền công biến hóa, dù đang mang hình thể  sắc tướng chim Bạch nhạn. Phép luyện công biến hóa bằng chữ phù, cho nên Ngài dùng chân vẽ phù mà luyện pháp.
             Trải qua một thời gian dài mà không thể ước tính được chính xác, Ngài Thái Công chứng đắn huyền công tức là: Thần công tu luyện bằng chữ phù (xuất phát đầu tiên do Ngài tìm ra). Trong lúc nầy Thiên Địa thành hình, bộ máy tạo hóa ra đời. Nhờ những chứng đắc huyền công nên Ngài bay liệng khắp nơi trong hành Ngài đang ngự. Khi ước muốn điều gì thì dùng đôi chân vẽ phù tất sẽ được như ý. Chữ thần công nầy có cái đặc biệt nữa là mở được kim quang xích sắt tiêu mòn sỏi đá.
            Ở trong hành nầy Ngài Thái Công đi khắp nơi để tìm chổ cho mình công phu tu luyện đến khi phát tỏa ánh quang. Cho nên đã phát tan nhiều kim quang sắt đá hầu làm nơi để trụ điển. Sau cùng, Ngài sa vàomột vùng dương âm thạch, dùng mỏ xử dụng thần công phá tan nham thạch tìm dưởng khí thiên, khí nham thạch, vỡ tan hắc khí quang trong nham thạch bao phủ Ngài làm ảnh hưởng đến sắc tướng Ngài thọ mang. Từ mỏ đỏ lông trắng , chân đỏ biến thành lông màu xám ô, mỏ đen, chân đen mà ngày hôm nay chúng nhơn gọi là chim gỏ mỏ.
            Nhờ phá được nham thạch âm, Ngài bay ra được khỏi hành âm chết nầy và bay thẳng sang hành có chiếu quang tinh, tức là hành Ngài Phổ Hiền đang ngự. Sự thoát khỏi hành âm chết này để sang hành vươn tinh khí là nhờ sự trợ giúp hóa công âm thầm của Phổ Hiền Bồ tát.
            Khi đến nơi Phổ Hiền Bồ tát bắt đầu rút lại những vượn khí chiếu quan phát giúp Thái công từ hành âm trở lại và bắt đầu giúp cho Thái công tu luyện thọ rút ngũ hành.  Lúc bấy giờ Thái công bắt đầu trụ điển. Có một điều mầu nhiện xảy ra khi lúc Thái công ở hành âm chết công phu thọ rút ngũ hành để hóa sanh làm chim Bạch nhạn thì phần tiểu vô cực điển dương đầu tiên biến mất, nhưng khi ở hành vượn tinh khí bắt đầu trụ điển tu luyện thì phần tiểu vô cực điển đầu tiên dần dần có trở lại và ngày càng phát tỏa, thì chim Bạch nhạn dần dần không di động dược. Sự biến động mầu nhiện nầy song song nhau, lúc mất tiểu vô cực điển thì hóa thành chim bay liệng, lúc tiểu vô cực điển có lại thì chim tự nhiên biến mất dần sự di động, nhưng vẫn còn mang sắc tướng loài chim.
            Từ đó Ngài Phổ Hiền Bồ tát dùng huyền công tỏa điển cho Thái Công biến hình, từ còn mang trạng thái sắc tướng loài chim thành một tiểu vô cực điển khởi thủy mà chính Thái Công không hề hay biết. Đến lúc hoàn thành biến thành tiểu vô cực đầu tiên Ngài Thái Công bắt đầu công phu tu luyện hóa sắc tướng như các chơn vị đắc quả đã đi qua. Lúc bấy giờ Thái Công tự tôn Ngài Phổ Hiền Bồ tát là bậc cao minh, khép mình làm đệ tử, vì Ngài chúng đắc sau Bồ tát, hơn nữa nhờ sự trợ giúp của Phổ Hiền, Ngài mới đắc quả thành công.
            Trong nối tiếp Thái Công bắt đầu công phu tu luyện thọ rút ngũ hành chiếu tỏa xuyên qua hành âm chết mà ngày trước đã ở. Ngài công phu huyền hóa đem tất cả điển quang của mình bay trở lại để luyện tập thần công.
            Thần công là gì? Là dùng phù chú để sai khiến loài vô tri giác.
            Thần: là biến hóa các loài vô tri giác có thần thức.
            Công: là sự huyền công hóa tạo, dù không có tri giác, nhưng có thần thức di động dược.
            Khi đắc quả Ngài Thái Công bay trở lại tôn Phổ Hiền Bồ tát làm thầy. Trong tiếp tục Thái Công trụ điển công phu đến kho hóa quang chiếc phân tiểu điển, tiền kiếp Ngài Thái Công đắc quả trở về khối dương để lại tiểu quang điển mà Ngài đã công phu hóa hại trao đổi công đức giúp tiểu quang tu luyện thần công. Để trả lại công đức, Thái Công đem tiểu quang chiếc phân làm môn đồ đệ tử Ngài Phổ Hiền Bồ tát. Từ đó Phổ Hiền Bồ tát cho tiểu quang của Thái Công tiền kiếp về non để truyền pháp cho các bậc Thần, Thánh ở cõi Địa Tiên. Ở cõi Địa Tiên, Ngài có danh là Khương Thái Công, đó là tiền kiếp của Ngài là như vậy.
            Về thần thông thì có 2 phần:
            1- Huyền pháp: dùng tâm để biến hóa
            2- Thần pháp: dùng mật ngữ bằng chữ để điều khiển biến hóa.
SỰ TU LUYỆN
            Sự tu luyện thần công nầy có qui luật rõ ràng, có cả thảy là: 365 chữ thần công pháp bối (tức là xử dụng chữ phù giống như bửu bối) và có 732 chữ huyền công phật bối (tức là Lỗ ban phật).
            Khi xuống phàm thế Khương Thái Công không xử dụng huyền công của mình mà chỉ xử dụng thần công nên Ngài là Giáo chủ Thần tổ Lỗ ban là như vậy.
            - Pháp huyền công thì dùng nhật nguyệt để tu luyện thu rút chữ phù vào tâm. Mỗi chữ phù phải công phu đúng 300 âm.
            - Pháp tu luyện thần công thì mỗi chữ phù có một câu chú niệm, cũng luyện nhật nguyệt hóa quang chữ phù 100 âm. Chữ phù nầy  cò sự biến hóa loài vô tri giác di động linh hoạt. Câu niệm chú là câu điều khiển như ý.
TẠI SAO CÓ SỰ SUNG ĐỘT GIỮA THẦN CÔNG VÀ HUYỀN CÔNG, GIỮA CÁC BÀ NGŨ HÀNH VÀ CÁC VỊ SƯ TRẦN THẾ?
            Các vị sư trần thế đánh cắp các chữ phù huyền công của các Bà, dùng thần công sai khiến phá hoại các Bà. Nguyên Lỗ ban là môn tu học thần thông phép tắc chỉ dành riêng cho vị nào xuống thế, tu non ẩn núi luyện tập hầu ban rải giữa chốn nhân phàm hữu hình công phu chứng đắc.
            Lỗ ban là môn học riêng biệt trong cõi vô hình từ cấp Thần trở xuống phàm thế tu học mà thôi. Từ cấp Thánh trở lên chỉ tu luyện huyền pháp chớ không học thần thông, cho nên gọi là Lỗ ban.
            Thí dụ: Mộc là loài vô tri giác, nhưng người tu luyện dùng mộc để luyện thần thông mà sai khiến hành xử chốn thế nhân, cho nên thợ mộc xuất phát đầu tiên tu luyện thần công là vậy.
            Thần tổ Lỗ ban là môn học riêng biệt của cõi vô hình. Có thể gọi là một môn phái đứng riêng rẽ trong cỏi vô hình, cũng như giữa thế trần có nhiều tôn giáo.
            Ở vào thời nhà Trụ, Khương Thái Công xuất thân tu luyện ẩn dật trên non. Ngài đã đắc pháp về huyền công và thần công. Ngài ẩn dật trên núi Tu Di ngọn Tam thanh. Thái Công biết được khí số chơn mạng đế vương. Vua Trụ vốn là loài vượn bạch tu hành đắc quả huyền công và xuống phàm làm một vị vương. Vì cao dầy công quả nên lâm phàm làm một vị vương để lập công bồi đức. Khi trở lại cõi thiên vào cõi hư vô thanh tịnh. Nhưng khi xuống phàm làm một vị vương người đi ngược lại, đam mê tửu sắc hoang phí làm cho nhân dân đói khổ, gây nhiều trọng tội. Cho nên tại cõi Thiên có một cuộc đại hội Tam thanh. Các cấp hội đồng do các Ngài Thập Bát điển quang trụ trì phân định, truyền cho Tử Nha trở xuống phàm rút khí số của vua Trụ. Trong cuộc hội ấy, có Ngài Diêu Trì địa Mẫu truyền cho các vị nũ Tiên xuống phàm vào thời vua Trụ để bắt cho hết những loài dã thú ẩn dật tu luyện chờ dịp quấy nhiễu nhơn sanh, cùng lúc đó có Khương Tử Nha xuống thế để rút lại khí số vua Trụ.
            Trong lúc các vị nữ Tiên xuống phàm tìm bắt các loài dã thú tu luyện quấy nhiễu nhơn sanh, thì Tử Nha đang ẩn tại núi Tu Di động Tam thanh chờ ngày mạt vận Trụ vương. Các vị nữ Tiên đó đây hành pháp, còn Tử Nha thì trụ một nơi chờ ngày hành xử.
            Kỳ mạt vận Trụ vương đến nơi. Các vị nữ Tiên hóa Thần ẩn vào động thất nơi hoang miếu giữa chốn phàm nhân để độ pháp nhơn phàm. Vì khí số đến thời mạt vận nên khiến vua Trụ xúc phạm đến vị Thần Nữ Hoa. Cho nên vị nữ Thần dùng loài chồn tinh biến hóa mượn xác phàm nữ nhân tài sắc lôi cuốn Trụ vương vào vòng sa đọa. Vì có công tu luyện về thần thông biến hóa, nhưng về đạo pháp chưa ngộ, cho nên cả 2 vị mà tiền thân là loài cầm thú, khi được làm nhơn phàm không phát triển đạo đức, mà lộ bản ngã thú tánh đi vào đường thất nhân mất đức. Đến thời gian này Tử Nha xuống thế hợp sức cùng các vị nữ Tiên để tận diệt loài yêu tinh quấy nhiễu.
            Những vị cầm tinh loài vượn bạch nầy công phu tu luyện quá lâu dài, nên vượn khí vửng mạnh, Tử Nha phải ẩn dật thêm một thời gian nữa chờ cuộc hội phán định Tam cấp.
            Các Ngài trong hội đồng ra lịnh cho lập Bảng Phong Thần diệt Trụ Vương và cứu vớt một số linh căn linh tử. Đây là cuộc thi tài, thi đức cho tất cả những phần có công tu luyện và đạo hạnh.
            Trong thời hậu thiên nầy sự mất đức quá nhiều, nhân sanh ô nhiễm thế trần quá nặng, người chân tu đạo đức rất ít, phần đông thì đội lớp tu hành để mưu lợi, tìm danh cho bãn thân. Cho nên các chơn vị trong  hàng Thập bát cùng hội đồng tam cấp cho lập ra Long hoa hội để cho các phần linh căn, linh tử cùng các chơn phàm xuất thân không phải là linh căn, linh tử có công tu luyện chọn trở về cõi Thiên.
            Cho nên trong cuộc thi tài nầy nhấm vào 2 phần để cứu vớt
            Thi tài: chọn lựa người thiên mệnh có tài lẫn đức
            Thi đức: chọn lựa người có công phu tu luyện, người hiền nhơn đạo đức.
            Thi tài chẳng qua chọn lựa người học đạo tu luyện về huyền pháp và thần pháp. Người nào đi vào đường tu luyện hành đạo cứu khổ bằng huyền pháp mới là kẻ có tài đức. Người nào đi vào đường thần pháp hành đạo cứu nhân thường là kẻ có tài mà thiều đức.
            Người chân chính trong thời hậu thiên nầy không ai học đạo cứu khổ bằng con đường thần pháp. Thay vì dùng chữ phù dùng chú điều khiển vật vô tri giác như ngày xưa, nhưng ngày nay các vị sư dùng binh ma yêu quái khiến chúng hành xử theo phù lệnh. Cho nên thường gây thất đức nhiều hơn cứu khổ nhơn phàm, ít có vị được công đức.
            Thánh tổ Lỗ ban Cửu Thiên Huyền Nữ
Cửu Thiên Huyền Nữ là chiếc quang của Diêu Trì Kim Mẫu có danh thế trần là Bích Liên Công Chúa sau thời gian khai thiên lập địa. Ngài công phu chứng đắc huyền công cùng thời với tiền thân Khương Thái Công.
            Cùng trong một thời gian tiền thân của Tử Nha được Phổ Hiền Bồ Tát dùng huyền công trợ giúp công phu tu luyện chứng đắc thành Lưu Ly dương phật, thì Bích Liên Công Chúa cũng đắc quả Tích Lịch Quang Phật. Hai vị nầy cùng trở lại hành âm thiếu linh khí bằng tất cả đại quang điển của mình để cùng nhau tu luyện tìm ra Thần Công binh pháp và Huyền Công binh pháp. Sau khi binh pháp huyền công được lưu truyền ở chốn nhơn phàm Bích Liên Công Chúa được phong danh Cửu Thiên Huyền Nữ thánh tổ.
            Khi chứng đắc quả Lưu Ly Quang phật Ngài Thái Công có đại nguyện cứu vớt nhân sanh thời hậu thiên, nên tiếp tục công phu tu luyện thần công.
            Khi cứng đắc quả Tích Lịch Quang phật Ngài Cửu Thiên có đại nguyện cứu vớt nhơn phàm thời suy di tận mạt.
            Hai vị đắc quả có cùng chung một lời đại nguyện vào thời hậu thiên cứu khổ, cho nên hai vị trở lại hành âm chết, cùng nhau công phu tu luyện ra Huyền Công tâm pháp và Thần Công tâm pháp để lại cho thế trần và trong cõi vô hình lưu truyền đến ngày hôm nay.
            Vào thời trung thiên lập bảng phong thần là để cứu vớt các phần linh căn thiên mệnh và các loài thú cầm đã dầy công tu luyện. Nếu dùng pháp đạo để độ pháp vào thời đó rất khó khăn và cũng không có kết quả bao nhiêu, nên Lưu Ly dương phật và Tích Lịch quang phật cùng phát nguyện tu luyện huyền công để cứu khổ nhơn phàm trong các thời suy di tận mạt. Cho nên 2 vị chiếu quang trở lại hành âm chết, không chơn khí mà tu luyện huyền công.
            Pháp tu luyện nầy bước đầu rất khó khăn trở ngại. Giữa trong hành không có ngũ hành, không có chơn khí, không có âm dương, chỉ toàn là một khối mù sương mờ mịt. Nhờ sự chứng đắc quả công giữa Cửu Thiên và Lưu Ly mới dùng đại quang điển của mình rút khí ngũ hành mang vào hành âm ấy, rút tia dương quang nhật, rút tia dương quang nguyệt mang vào khối âm hành để công phu. Cùng một lúc không thể đem 2 tia quang nhật và quang nguyệt vào, nên 2 vị mới chia làm hai. Ngài phương đông, Ngài phương tây chiếu quang rút vào hành âm và bắt đầu dùng danh từ đặt tên cho loài vật vô tri.
            Trong lúc tu luyện như vậy 2 Ngài rút khí ngũ hành vào trước rồi dùng tia quang điển của mình rút nhật nguyệt. Hai vị người đông người tây đối diện chiếu tỏa nhật nguyệt giữa ngũ hành để làm tự chú.
            Đầu tiên 2 vị tu luyện thần công trước, sau mới luyện huyền công. Lúc bấy giờ các vật chưa có danh từ, nên 2 vị đặt danh từ để việc sắp xếp dễ dàng công phu. Hai vị dùng tia quang điển soi khắp các vùng hành âm, thấy vật thì trắng, cái thì xanh, cái thì cứng rắn, cái thì dẻo dai tự vươn tự phát trong hành ân nầy. Cho nên 2 vị nhận đinh:
            - Vật dẻo nhưng cứng gọi là Mộc
            - Cái dai mềm gọi là Kim
            - Cái cứng rắn gọi là Thạch
Từ trong các vật nầy nhị vị mới tìm tự chú công phu biến hóa thần thức vào đó cho đến lúc chúng biết di động. Thế trần hôm nay mỗi nghề đều có một vị tổ là lúc khai sáng ngũ hành trần thế khai sáng Lỗ ban dùng những vật vô tri giác điều khiển những vật thể biết di động linh hoạt dần dần có thần thức, cho nên chúng là vị tổ của vật thể đó.
            Sau khi đắc pháp thần công và huyền công nhị vị mới định ngũ hành chính xác bằng vật thể cho trần thế. Chính ngũ hành có sắc tướng nầy mới hành thì được phép huyền công.
            Từ khi khai sanh đất trời, ngũ hành do các chơn vị trong Thập bát điển quang hóa tạo ở thể khí không rõ ràng, chưa có tên bằng vật thể thế trần, tức là chưa có sắc tướng. Sau nầy nhị vị phật tìm ra đặt thành tự theo sắc tướng.
            Thí dụ:
            - Hỏa tượng trưng cho khí dương.
            - Thủy tượng trưng cho khí âm.
            -  Kim tượng trưng cho đồ dùng trang sức.
            - Mộc tượng trưng cho cây cỏ.
            - Thổ tượng trưng cho thạch (lớp địa thạch hành âm cứng rắn, khó mòn, không thể nào dùng hết được).
Sau khi đắc pháp thần công, nhị vị trụ điển dùng phương thức thần công tu luyện huyền công, dùng chữ dùng tâm pháp để luyện thành và sai khiến.
            Mộc tượng trưng cho nhơn.
            Thổ tượng trưng cho địa (thạch).
            Sau nầy dùng các lệnh phù ấy tu luyện, khiển binh bằng tâm pháp. Trong việc khiển binh nầy ta dùng huyền công tâm pháp để điều khiển và sai khiến các vị tướng thần hành xử.
            Thần công có 2 cách để sai khiến:
            1- Dùng chú tự để điều khiển lệnh phù, bắt trói những vong linh tinh yêu ma quỷ, điều khiển chúng theo ý mình.
            2- Dùng lệnh phù và chú tự để điều khiển loài không tri giác theo ý của mình.
            - Nếu dùng trấn ếm, thư gởi thì dùng vật hoàn toàn không tri giác.
            - Nếu dùng quấy phá thì dùng binh ma tướng quỷ hoặc những vong linh vất vơ vất vưởng.
Cho nên các bùa phép: chà, lèo, á rặc, ngải đều đi từ trong thần công mà ra. Đặc biệt các loại chà, lèo, á rặc thì dùng thư nhiều hơn ếm, vì chúng dùng loài vô tri giác mà điều khiển.
            Về á rặc thì thường xẩy ra: thư ếm và khuấy phá vì trong đó có binh ma tướng quỉ là những vong vất vơ, vất vưởn thu rút chúng về qui tụ.
            Phần trình bày trên đây với dụng ý hướng dẫn khái niệm cho quý đạo hữu, quý bạn thiền gia, quý tín hữu trong bốn phương lướt qua trong cõi vô hình. Trong lúc tiếp nối sẽ gởi đến quý đạo hữu, quý bạn thiền gia, quý tín hữu phần huyền công binh pháp. Xem qua được phần huyền công binh pháp tức là đã xemThần du công huyền pháp.
Thiền trụ niết con đường chân lý
Định quán tâm thân chỉ nhiệm mầu
Định thiền tâm chỉ ở đâu
Ấy người thiền định phải cầu huyền vi
Thiền thời tâm ta phải định
Định là tâm trụ niết bàn
Mâu ni ấy chữ chuyển sang
Của người thiền định tâm vàng chân như.

TRỞ VỀ TRANG NHÀ - Hội Thông Thiên Chơn Giáo
 

No comments:

Post a Comment